Chuyện ít biết về huyền thoại K3 Tam Đảo với lời thề "K3 còn, Thành cổ còn"
Theo ông Hợi, đồng đội của ông có những người phải hi sinh nhiều lần bởi sự quăng quật của bom đạn. Có những đoàn quân mãi mãi không thể sang sông, chỉ vọng lại tiếng kêu xé lòng "mẹ ơi, chị ơi"...
Ngày 9/7/1972, bên bờ sông Thạch Hãn lịch sử, cạnh hố bom nham nhở, ngổn ngang cây cối sau trận dội bom B52 của Mỹ ở thôn Nhan Biều 3, Tư lệnh Mặt trận B5 - Đường 9 Lê Trọng Tấn và Tham mưu trưởng Mặt trận Bùi Thúc Dưỡng đã trao nhiệm vụ đặc biệt cho Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo: Trực tiếp vượt sông, chốt giữ bảo vệ bên trong Thành cổ Quảng Trị.
Tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến thay mặt tiểu đoàn đã hứa với tư lệnh: “K3 - Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng trị còn”.
Có mặt cùng Ban chỉ huy tại thời khắc thiêng liêng ấy, ông Nguyễn Văn Hợi - Trợ lý quân lực Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo - ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ và quyết tâm thực hiện lời hứa cùng đồng đội bảo vệ từng tấc đất Thành cổ dù phải hi sinh xương máu.
Một trận chiến bên trong thành cổ Quảng Trị, năm 1972. (Ảnh: Đoàn Công Tính - TTXVN).
53 năm sau, nhắc lại lời thề quyết tử, người cựu binh không kìm được xúc động, đôi mắt ầng ậc nước. Câu nói chỉ mấy chữ ngắn gọn nhưng là cuộc chiến kéo dài 81 ngày đêm khốc liệt, là bản hùng ca bất tử được viết bởi hàng nghìn chiến sĩ đã mãi mãi hòa vào trong từng tấc đất. Trái tim như quặn thắt, ông Hợi nói: “Tôi nhớ đồng đội lắm”.
Cuộc chiến với những vũ khí tối tân tại “chảo lửa” Thành cổ
Trò chuyện cùng phóng viên Dân trí trong ngôi nhà nhỏ ở phường Nam Định (tỉnh Ninh Bình), những ký ức về “mùa hè đỏ lửa” ở Thành cổ Quảng Trị như hiện về mồn một trong tâm trí người cựu binh.
Thời điểm ấy, Mỹ - ngụy lên kế hoạch phản kích tái chiếm thị xã Quảng Trị trong tháng 7 và toàn tỉnh Quảng Trị trong tháng 9/1972 nên đổ về đây một lực lượng quân đội khổng lồ với nhiều binh chủng, sư đoàn mạnh cùng vũ khí tối tân nhất. Kẻ thù điên cuồng tổ chức các cuộc tấn công nhằm xóa tâm lý thất bại đang phát triển tràn lan trong quân đội ngụy.
Theo ông Hợi, địch dùng rất nhiều bom đạn, vũ khí tối tân nhằm hủy diệt sự sống trong Thành cổ.
Mỹ - ngụy đặt mục tiêu cắm cờ lên Thành cổ để phục vụ ý đồ ép ta ở Hội nghị Paris, dự định họp lại vào ngày 13/7/1972 sau nhiều lần trì hoãn. Bộ Tư lệnh B5 tổ chức lực lượng ở các hướng chiến lược và lệnh cho Tỉnh đội Quảng Trị khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, cùng các đơn vị, sẵn sàng đánh bại cuộc phản kích lớn của địch. Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo là một trong những đơn vị thực hiện nhiệm vụ này.
Theo ông Hợi, Tiểu đoàn K3 – Tam Đảo tiền thân là Tiểu đoàn 3 thuộc - Trung đoàn 246. Từ ngày 9/7/1972, tiểu đoàn thuộc tỉnh đội Quảng Trị, thực hiện nhiệm vụ chốt giữ Thành cổ, K3 là mật hiệu, Tam Đảo là mật danh chiến đấu.
Mờ sáng ngày 10/7/1972, ông Hợi cùng hơn 300 đồng đội vượt sông Thạch Hãn tiến vào Thành cổ. Mỗi người được lệnh bỏ lại quân tư trang, giấy tờ tùy thân, những gì mang theo phải giản tiện nhất.
Vốn có thói quen ghi nhật ký từ những ngày đầu nhập ngũ, ông Hợi đem theo cuốn sổ nhỏ gắn bó bên mình bấy lâu, còn đượm mùi thuốc súng trong những ngày chiến đấu ở Khe Sanh ác liệt. Song ông không ngờ, thế trận Thành cổ quá khốc liệt, suốt 81 ngày đêm, ông không có một phút giây nào để ghi chép dù chỉ một đôi dòng…
Theo ông Hợi, sau khi vượt qua sông an toàn, Tiểu đoàn của ông vào bên trong thành, chọn vị trí đặt sở chỉ huy tiểu đoàn tại mép thành phía trong kề cổng Tây. Ngay những ngày đầu tiên trong Thành cổ, Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo đã phải đối mặt với những trận tấn công điên cuồng của kẻ thù.
Trận chiến ác liệt tại Thành cổ Quảng Trị (Ảnh: TTXVN).
“Ngày đầu tiên, tiểu đoàn chúng tôi đã phải hứng chịu những trận bom, pháo ghê gớm, hơn 30 đồng chí thương vong. Tiếng bom, tiếng pháo inh tai, đất gạch tung tóe khắp nơi, ai cũng căng thẳng. Tất cả như già đi trước tuổi”, ông Hợi nhớ lại.
Các đại đội, phân đội hối hả đào hầm hào chiến đấu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Trên trời máy bay L-19 vè vè, vòng đi lượn lại, trinh sát nới rộng vòng bay, sau đó chúc đầu xuống, liên tục bắn đạn khói vào trận địa của Đại đội 12 thuộc Tiểu đoàn.
Chưa dừng lại ở đó, từng tốp 3 chiếc máy bay F-4H thay nhau lao xuống bắn tên lửa. Cả Thành cổ mịt mù khói lửa. Nhận định địch sẽ tấn công từ trước nên các đại đội được lệnh sẵn sàng chiến đấu. Đại đội 12 đồng loạt nổ súng, bắn trả quyết liệt khiến địch càng điên cuồng bắn phá, dùng bom bi, bom phá, bom cháy, bắn tên lửa.
Hỏa lực của ta bắn quá mãnh liệt nên các loại bom của địch dội xuống thường trượt mục tiêu. Do bắn nhiều, bắn liên tục nên nòng súng 12,7mm của Đại đội 12 nóng bỏng, cháy cả cành lá ngụy trang, các chiến sĩ phải thay nòng súng, luân phiên đi lấy nước dội vào nhằm hạ nhiệt.
Ông Hợi cho biết, sau khi dừng ném bom, địch lại tung ra đạn pháo các loại với đủ kích cỡ cùng một lúc bắn vào thành. Hầm hào quân ta mới dựng chao đảo. “Chảo lửa” Thành cổ cứ rung lên bần bật. Một hầm chiến đấu của Đại đội 10 bị pháo khoan đánh trúng khiến 3 chiến sĩ hi sinh. Hầm của đại đội 12 cũng bị bom đánh sập, 4 chiến sĩ đã phải bỏ mạng.
“Không chỉ dùng các loại bom mìn sát thương cao, địch còn dùng đạn hơi cay bắn vào Thành cổ. Mặt nạ phòng độc của các chiến sĩ bị bom pháo đánh hỏng nên buộc phải lấy khăn mặt, thậm chí phải xé cả quần áo, đổ phần nước uống ít ỏi ở bi-đông rồi bịt vào mũi, vào miệng song vẫn không chịu được không khí ngột ngạt trong hầm. Một số chiến sĩ không chịu nổi hơi cay đã lao ra khỏi hầm và lập tức bị thương vong do bom pháo địch”, ông Hợi chia sẻ.
Nhận thấy sự khốc liệt ngay từ những giờ khắc đầu tiên nhưng mỗi chiến sĩ đều hiểu rằng, không có thời gian cho sự lo lắng, nao núng hay hoảng sợ.
Đập tan mưu đồ cắm cờ nhằm tuyên truyền lừa bịp của địch
Theo ông Hợi, những ngày sau đó, Tiểu đoàn nhận được tin báo ngày 15/7/1972 là ngày tái họp lại Hội nghị bốn bên ở Paris để bàn về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị của ngụy đã ra lệnh cho tất cả lực lượng của địch bằng mọi giá phải cắm được cờ ba que lên Thành cổ vào ngày 13/7/1972 để quay phim, chụp ảnh, đưa sang Paris làm công tác tuyên truyền lừa bịp.
“Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Tiểu đoàn 3 bằng mọi giá phải giữ vững Thành cổ, cương quyết không cho địch cắm cờ, phải bảo đảm an toàn cho từng mét đất trong thành. Tiểu đoàn 3 chúng tôi một lần nữa hứa với Quân ủy Trung ương: "K3 - Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng Trị còn!”, ông Nguyễn Văn Hợi nhớ lại.
Nhằm thực hiện mục tiêu cắm cờ trong Thành cổ, địch dội các trận mưa bom cả ngày 12/7/1973. Ngày hôm sau, một hầm chiến đấu bị bom khoan rơi trúng khiến toàn bộ chiến sĩ hi sinh. Rạng sáng ngày 14, một tốp biệt kích ngụy luồn lách qua những bức tường thành bị bom pháo khoan thủng có ý định bò lên cắm cờ nhưng đã bị các chiến sĩ áp sát, tiêu diệt.
Những ngày tiếp theo, địch liên tiếp tổ chức các cuộc tấn công với ý định hủy diệt mọi sự sống trong thành. Có những ngày chúng rải xuống thị xã và Thành cổ 36.000 viên đại bác các loại. Trong trận địa nghiêng ngả, chao đảo vì bom đạn của địch, bộ đội ta vẫn kiên cường đánh trả.
Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1972, mưa liên tục khiến thế trận ngày càng khó khăn. Địch lợi dụng mưa bão tăng cường đánh phá ác liệt, bổ sung thêm bom loại mới (bom dù). Ngay lần đầu tiên sử dụng, chúng đã khiến Chính trị viên phó tiểu đoàn là Lê Binh Chủng cùng chỉ huy thông tin, trinh sát, vận tải của tiểu đoàn hi sinh.
Suốt nhiều năm sau này, ông Hợi vẫn không thể quên hình ảnh Tiểu đoàn trưởng Đỗ Văn Mến mặt sạm đen khói đạn, vận chiếc quần đùi, mang theo khẩu AK báng gấp bên mình, mò mẫm đến từng chốt chiến đấu, động viên bộ đội: "Chúng ta hãy biến đau thương thành hành động, phải kiên cường chiến đấu tiêu diệt địch, giữ vững Thành cổ Quảng Trị".
Thế trận khốc liệt, lực lượng của tiểu đoàn hao hụt từng ngày. Bộ Tư lệnh chiến dịch ưu tiên bổ sung quân cho Tiểu đoàn 3 thêm 4 đợt nhưng đến khi rời thành cũng chẳng còn lại là bao.
Ông Hợi nghẹn ngào nhớ đến ngày 12/9/1972 - ngày đỉnh điểm của sự ác liệt.
Ông kể, với vài chục tay súng còn lại, K3 - Tam Đảo phải đương đầu với các đại đội lính thủy đánh bộ ngụy. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Hữu Đoài đã hi sinh ngay tại cổng Tây vì một quả M-79 bắn thẳng của địch.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Hợi chụp ảnh với đoàn phim "Mưa đỏ" (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Chiến sĩ Đại đội 9 Hán Duy Long bắn liền một lúc 9 quả B-40 và 1 quả B-41 vào đội hình địch, đến nỗi ngất gục. Cả tiểu đoàn dựa vào hầm hào công sự kiên cường đã đánh trả địch quyết liệt khiến chúng phải tháo chạy khỏi thành.
“Bốn ngày địch dùng bộ binh áp sát từ ba hướng nhưng vẫn không chiếm được thành nên điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các chốt của ta. Chốt chiến đấu của tiểu đoàn có điểm chỉ cách địch 50m. Ngày 14/9/1972, sau khi dùng xe tăng phun lửa dữ dội vào các chốt của ta, địch tiến công vào thành. Tiểu đoàn lúc này chỉ còn gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự: "K3 - Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng Trị còn", ông Hợi rưng rưng.
Ngày 16/9/1972, Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo được lệnh rời khỏi thành, kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ.
"Thành cổ rộng, nhưng đồng đội tôi nằm chật"
Trong ký ức của ông Hợi, những ngày giữ Thành cổ không còn khái niệm ngày hay đêm.
Trời vừa ngả hoàng hôn, ánh sáng chưa kịp tắt, máy bay địch đã trút xuống hàng loạt pháo sáng, rải chằng chịt trên bầu trời. Ánh sáng trắng lạnh bao phủ, soi rõ đến từng sợi tóc trên đầu đồng đội. Còn ban ngày, bom đạn dội xuống dồn dập, khói bụi mịt mù che khuất cả mặt trời, biến không gian thành một màu xám đặc quánh, ngột ngạt.
Giữa mưa bom bão đạn, đất Thành cổ bị cày xới, nhão nhoét thành những hố sâu chằng chịt. Mỗi quả bom rơi xuống là một mảng tường thành sụp đổ, từng lớp đất đá tung tóe, hòa lẫn với khói lửa, máu và mồ hôi của người lính.
Khi đất nước thống nhất, phóng viên nước ngoài hỏi về ý chí chiến đấu của những người lính trẻ quyết giữ từng tấc đất Thành cổ, ông Hợi khảng khái nói, ông cùng hàng nghìn đồng đội chiến đấu vì ý chí bảo vệ Tổ quốc.
"Chúng tôi là người Việt Nam, bảo vệ Thành cổ là bảo vệ Tổ quốc, đất nước của mình. Với ý chí của người lính bảo vệ đất nước thà hi sinh chứ không lùi bước, dù chỉ còn một người, chúng tôi vẫn chiến đấu đến cùng", ông nói.
Ngồi bên những tập ảnh đã nhuốm màu thời gian, ông Hợi lật giở từng trang, ký ức về đồng đội ngã xuống ở Quảng Trị lại ùa về. Đôi mắt người lính già nhòa đi khi nhớ về những ngày gian khổ, chiến đấu trong hầm hào ngập nước đến cổ.
Ngày ấy, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 ưu tiên bổ sung lực lượng cho K3 – Tam Đảo, ông nhận nhiệm vụ đi đón quân bổ sung.
Có hôm, theo thông báo sẽ có 70, rồi 50 tân binh, nhưng pháo dội suốt đêm, ông Hợi thấp thỏm hướng ra phía bờ sông nhưng đến sáng, chỉ thấy vài chiếc áo mưa bó gói quân trang dạt vào bờ. Ông cùng đồng đội định chạy ra đón thì một loạt pháo trùm lên, giữa dòng sông chỉ còn vang lên những tiếng kêu xé lòng: “Mẹ ơi!”, “Chị ơi!”.
“Họ còn quá trẻ, chưa kịp biết đến tình yêu. Ở phút cuối đời, điều duy nhất họ gọi chính là mẹ, là chị”, ông Hợi nghẹn ngào.
Trong trận địa ác liệt, nhiều đồng đội lần lượt hi sinh. Mỗi người lính Thành cổ ngày ấy như ông luôn xác định sẵn tư tưởng, ngày mai người nằm xuống có thể là mình. Dẫu vậy, lời thề danh dự, lý tưởng chiến đấu vì Tổ quốc đã giúp họ vượt qua nỗi sợ, tiếp tục tiến công.
"Có những đồng đội của chúng tôi phải hi sinh nhiều lần bơi bom đạn giày xéo, quăng quật đến khi thân xác chẳng còn gì. Đau xót lắm", ông Hợi không kìm được nước mắt.
Ám ảnh với ông Hợi không chỉ là cái chết, mà còn là hình ảnh những đồng đội bị chấn thương tâm lý do sức ép bom đạn. Giữa tiếng nổ dội rung cả đất trời, có người hoảng loạn bật chạy khỏi hầm hào, vừa chạy vừa gào thét. Có người bị vùi dưới từng lớp đất, khi được đưa lên không chỉ bị thương mà còn bị ảnh hưởng nặng nề tới hệ thần kinh, không còn tỉnh táo.
Những ngày tháng 7/1972, mưa tầm tã trút xuống Quảng Trị. Nước ngập trắng hầm hào, các chiến sĩ vừa tát nước chống ngập, vừa căng mình sẵn sàng chống trả các đợt tấn công dồn dập của địch. Giữa hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, bữa ăn vội của những người lính như ông Hợi diễn ra đơn sơ, vội vã.
Theo ông, có những ngày chỉ sống bằng lương khô, thậm chí nhịn đói một, hai ngày liên tiếp cũng thành quen. Cái bụng trống rỗng cồn cào, cổ họng khát khô nhưng tất cả đều nén lại, chấp nhận như một phần tất yếu của chiến trường. Người lính lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, mặc cho cơ thể rã rời.
Mưa ngập khắp hầm hào, nước dâng ngang cổ cơn buồn ngủ lúc nào cũng rình rập. Để vẫn có thể chợp mắt lấy sức chiến đấu, ông Hợi cùng đồng đội lấy dây buộc vào cổ áo rồi buộc một đầu dây lên cao để khi ngủ quên, không bị gục mặt xuống nước.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Hợi (giữa) khóc, kể lại ký ức với đồng đội trong trận chiến 81 ngày đêm tại Thành cổ Quảng Trị (Ảnh: Đoàn phim Mưa đỏ).
Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu khốc liệt bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, ông Hợi là một trong số ít người lính Tiểu đoàn K3 - Tam Đảo may mắn còn sống trở về với gia đình, dù trên thân thể mang đầy thương tích.
Ông Hợi và đồng đội cố gắng thực hiện tâm nguyện cuối cùng của những người ngã xuống ở Thành cổ, để gia đình họ vơi bớt nỗi đau.
“Nhiều đồng đội của tôi đã không thể trở về bên kia sông. Trước lúc ra đi, họ nhớ đến gia đình, nhớ đến quê hương. Đồng đội Nguyễn Đức Thuận đã nhờ tôi và anh Trần Trọng Can gửi lại chiếc ba lô với bộ quần áo, chiếc mũ, tấm vải dù và chiếc đồng hồ về cho gia đình, coi như lời trăng trối cuối cùng”, ông Hợi nghẹn ngào.
Ngày hòa bình lập lại, anh Can đã trao tận tay cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Đức Thuận những kỷ vật thiêng liêng còn sót lại sau chiến trận.
Ông cho biết, khi sang sông vào Thành cổ, tiểu đoàn có 325 người, sau đó quân số được bổ sung gấp 4 lần. Sau này khi hòa bình, lần theo trí nhớ, người cựu binh Nguyễn Văn Hợi đã đi khắp 14 tỉnh, thành, tìm lại được 42 đồng đội. Lần được gặp Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ở Phủ Chủ tịch hồi năm 2009, tiểu đoàn vỏn vẹn chỉ còn 39 người.
“Như vậy, trong 81 ngày ấy, hơn 1.000 người trong tiểu đoàn chúng tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi Thành cổ. Thành cổ rộng, nhưng đồng đội tôi nằm chật”, ông bật khóc nghẹn ngào.
Năm 1973, mang thương tật 81%, ông Nguyễn Văn Hợi về an dưỡng ở Trung tâm Điều dưỡng thương binh Liêm Cần (trước thuộc Hà Nam nay là Ninh Bình).
Về với đời thường, ông Hợi có cuộc sống hạnh phúc bên người vợ hiền và 4 con gái ngoan ngoãn, thành đạt. Thế nhưng trong lòng ông vẫn còn nguyên những khoảng trống không thể lấp đầy khi nhớ đến đồng đội.
“81 ngày Thành cổ khốc liệt cùng chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 đã góp phần tạo ưu thế trên bàn đàm phán buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973”, ông Hợi chia sẻ.
Ông Hợi (thứ 5, hàng một từ phải qua) cùng đồng đội chụp ảnh cùng nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2009 tại Phủ Chủ tịch.
Chia tay phóng viên Dân trí, ông Hợi nhiều lần nhấn mạnh đến giá trị của hòa bình. Ở tuổi 78, người lính năm xưa cùng đồng đội vào sinh ra tử giữa bom đạn, càng thấm thía hơn ai hết ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống yên bình hôm nay.
Ông chia sẻ, hòa bình hôm nay là món quà vô giá để các thế hệ sau được học hành, lao động, xây dựng tương lai. Bởi vậy, ông luôn mong lớp trẻ biết trân trọng, gìn giữ và phát huy, để những hi sinh năm xưa của đồng đội ông không trở nên vô nghĩa.
Vừa qua, bộ phim Mưa đỏ của Điện ảnh Quân đội nhân dân, lấy cảm hứng và hư cấu từ sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã thu hút đông đảo khán giả.
Ông Nguyễn Văn Hợi đã được mời tham dự buổi ra mắt và giới thiệu tác phẩm. Trong vai trò khách mời, ông đã có nhiều tâm sự xúc động. Trước đó, ông đã có cuộc gặp gỡ với đạo diễn và các diễn viên đoàn phim để chia sẻ nhiều ký ức khốc liệt về cuộc chiến, giúp các diễn viên hóa thân vào nhân vật một cách chân thật và cảm xúc.
Ảnh: Nhân vật cung cấp, Hồng Anh, Tuệ Minh/Dân trí