Tôi về làng cũ, được nghe kể những giai thoại gắn liền với cây tre thân thuộc, qua đó gợi lên phẩm tiết của một dân tộc bền bỉ, kiên trung
Đã có bao nhiêu người sống chết với cây tre trên trái đất này, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như tôi đã kể. Với người Việt, trong lịch sử ngàn năm nghèo khó, cây tre đã sừng sững trong văn chương, trong những vần ca dao và cả trong những câu chuyện mang tính thời sự một thời, nay đã trở thành những giai thoại.
Bôi ngõ, bỏ ngôi
Sau ngày hồi cư về từ vùng tự do, đồn bót lính Pháp và lê dương lập nên dày đặc dọc Quốc lộ 1 ở khu vực Điện Bàn (Quảng Nam). Chỉ hơn một cây số phía Bắc cầu Ngũ Giáp đã có 4 cái đồn lính. Rất nhiều lính Tây lính ta thay nhau tuần tiễu cả ngày lẫn đêm, nhà dân nào cũng bị dòm ngó. Năm 1949, khoảng cuối tháng chạp, khi các nhà bắt đầu rang nổ (rang từ gạo nếp cho nở phồng ra) để chuẩn bị “tắm” bánh khô hoặc bửa củi nấu bánh tét thì đám lính đi đến từng nhà yêu cầu phải tập trung tu sửa lại hàng rào, cổng ngõ chuẩn bị đón quốc trưởng Bảo Đại từ Pháp về chấp chính và sẽ ra thăm Quảng Nam vào sau Tết (dù trên thực tế, tháng 4-1949, ông ta mới về).
Nhà nào cũng được hướng dẫn phải làm cổng ngõ theo kiểu vòng cung như chiếc vành khăn đóng bằng những cây tre đốn từ vườn nhà và buộc phải trang trí thật rực rỡ. Dân tình vừa trải qua mấy năm tản cư, loạn lạc, đói kém phải cắn răng không dám cãi lệnh nhưng trong thâm tâm ai cũng uất ức. Nhất là chuyện Bảo Đại sau khi bỏ Hồng Kông về vịnh Hạ Long rồi manh tâm ký với tổng thống Pháp Hiệp định Élysée để lập ra chính phủ quốc gia mà thực dân rêu rao là “giải pháp Bảo Đại”. Dù lúc đó phương tiện truyền thông không có gì nhưng hầu như nhiều người dân quê ai cũng biết qua những bài vè rất dễ thuộc, chẳng hạn: “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về/Nguyễn về để đóng vai hề tay sai…/Gái đẹp cùng với rượu Tây/Quốc trưởng mê gái liếm giày thực dân…/Khi nào súng nổ đâu đây/Bù nhìn Bảo Đại tan thây có ngày…”.
Việc sơn sửa cổng ngõ lần này vì vậy được người dân gọi nôm na là “bôi ngõ” và nói lái thành “bỏ ngôi” để dè bỉu tham vọng của cựu hoàng. Họ đồng thanh gọi nhau, hỏi nhau: “Bôi ngõ chưa ông?”, “Bôi ngõ đi mà về ăn Tết!”… như một thông điệp của lòng dân chứa đầy khát vọng lúc bấy giờ.
Trò chơi “Ngô – Trúc”
Sau đình chiến 1954, thanh thiếu niên làng tôi có nhiều trò chơi dân dã như bắn bi, u mọi, đá banh (làm bằng lá chuối khô hoặc giẻ rách quấn lại); con gái thì nhảy dây, đánh nẻ… Từ năm 1960 đến 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam phát hành đồng tiền kim loại có mệnh giá 50 xu, một đồng. Liền khi ấy, không biết từ đâu ra, đám trẻ lại có thêm một trò chơi khác: Trò chơi “Ngô – Trúc”.
Ngô – Trúc là cách nói gọn cho hình ảnh hai mặt của đồng bạc bằng kim loại mới này, một mặt là chân dung Tổng thống Ngô Đình Diệm, mặt kia là hình bụi trúc in nổi. Trò chơi đơn giản như cách mà các trọng tài đá banh vẫn làm: Tung đồng bạc quay tròn trên không, khi nó rơi vừa gần mặt đất (hoặc mặt bàn) thì dùng tay chụp lấy và đè kín lại; người tham gia trò chơi sẽ chọn đáp án là “Ngô” hoặc “Trúc” trước khi người chủ trò mở tay ra. Nếu mặt trên đúng là Ngô mà người chơi cũng nói “Ngô” thì thắng; nói Ngô mà phía trên là hình bụi trúc thì thua và ngược lại. Phần thưởng thắng thua có khi chỉ có vài cái kẹo cau, kẹo ú, cũng có khi là ăn luôn tiền.
Trò chơi đơn giản là vậy nhưng đầy ẩn ý. Người Quảng Nam thường nói “trúc” gần âm với truất nên Ngô – Trúc cũng đồng nghĩa là chính phủ Ngô Đình Diệm trước sau sẽ bị lật đổ, truất phế.
Các cụ lão làng tôi ngày nay mới bật mí đó chính là cách tuyên truyền của những cán bộ Việt Minh được ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneve bày cho trẻ con thông qua trò chơi đó.
Trong nhà treo mõ, ngoài ngõ… úp om!
Quận trưởng Điện Bàn thời Ngô Đình Diệm là ông Trần Quốc Thái, khét tiếng với việc thực thi chính sách xây dựng hàng loạt ấp chiến lược ở nông thôn lúc đó. Các làng ở quận Điện Bàn bao bọc bên trong những hàng rào ấp chiến lược làm bằng tre, phía ngoài đào hào rộng và cắm đầy chông tre nhọn. Ở các cổng làng hoặc ngã tư thường dựng các bót gác.
Mỗi thôn, quận Thái chọn một xóm để quy hoạch gọi là ấp kiến thiết. Ở quê tôi, ngay sau Tết Canh Dần (1959), quận Thái chọn xóm Chay nhờ địa thế khá độc lập và gần “cơ quan đại diện xã”. Xóm kiến thiết có hệ thống đường sá theo ô bàn cờ, nhà cửa của dân phải xây thẳng hướng ra đường, có cổng ngõ xây gạch, tô xi-măng theo mẫu chung là hai trụ vuông, bên trên gắn hai khối xi-măng tròn như quả bóng. Để có một khối tròn giống nhau, các thợ xây dùng cái om bằng đất nung làm khuôn để đổ xi-măng vào, chờ cho đông cứng sẽ đập bể om và đem “cục xi-măng” gắn lên đầu trụ ngõ.
Trong các xóm, trai tráng mỗi người phải có cái mõ bằng ống tre có khoét một rãnh dài và cột quai vào hai đầu để mang vào vai, một cây gậy tre và sợi dây dừa cuộn lại. Mỗi đêm họ được chia phiên gác ở các bót hoặc đi tuần tiễu bên trong các hàng rào ấp chiến lược. Khi có biểu hiện khả nghi thì phải đánh mõ để “ngăn chặn cộng phỉ về làng”! Mõ tre, gậy tre và dây dừa khi hết ca gác phải treo ở một vị trí thuận lợi và cố định khi về nhà, thường là tại chỗ đầu hàng hiên.
Vậy là trong dân gian ngay sau đó đã lan truyền câu vè “trong nhà treo mõ, ngoài ngõ úp om”. Các vị lão nông về sau giải thích câu đó hàm ý là chính quyền của Trần Quốc Thái (hay rộng ra là Ngô Đình Diệm) đến đâu thì dân chúng chỉ có treo mõ (miệng) và úp om (nồi nấu cơm bằng đất nung phổ biến của dân nghèo lúc đó) thôi!
Những câu chuyện cũ nay đã trở thành giai thoại từ hơn 60 năm trước trong đời sống người dân ở nông thôn Quảng Nam trên đây thường chỉ “kể cho vui” nhưng lúc họ ngồi ôn lại chuyện xưa. Những câu chuyện thấp thoáng sức sống mạnh mẽ của lòng dân, chẳng khác gì sức bền và sự chịu đựng dẻo dai của cây tre thân thuộc ở làng. Từ hình tượng cây tre gắn bó bao đời và bằng một thứ ngôn ngữ bình dị hằng ngày ấy, dù cuộc sống cơ cực đến đâu, người dân vẫn nghĩ về vận nước với ý nghĩa tích cực nhất.