Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper tuyên bố Mỹ sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong cuộc điều tra về vụ tấn công tại Đắk Lắk hồi tháng 6.
Hợp tác an ninh – quốc phòng
Tại cuộc gặp gỡ báo chí vào ngày 24/7, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper đã trả lời câu hỏi của phóng viên Dân trí về chuyến thăm gần đây của tàu sân bay USS Ronald Reagan tới Việt Nam cũng như hợp tác quốc phòng giữa hai nước nhân kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác toàn diện (2013-2023).
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper tại cuộc họp báo ngày 24/7 ở Hà Nội (Ảnh: Mạnh Quân).
Đại sứ Knapper cho biết tàu sân bay USS Ronald Reagan và hai tàu khác (gồm tàu USS Antietam – CG 54 và tàu USS Robert Smalls – CG 62) đã có chuyến thăm rất thành công tới Việt Nam vào cuối tháng 6. Đây là lần thứ 3 tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam, diễn ra đúng dịp hai nước kỷ niệm 10 năm quan hệ đối tác toàn diện. Đại sứ cho biết chuyến thăm diễn ra suôn sẻ và tàu sân bay Mỹ được chào đón nồng nhiệt.
“Việc tàu sân bay Mỹ đến Việt Nam và tham gia các hoạt động trong khuôn khổ chuyến thăm là điều thường lệ. Các thủy thủ và sĩ quan trên tàu đã tham gia các hoạt động cộng đồng, biểu diễn âm nhạc, thể thao…
Điều này không chỉ thể hiện cam kết của Mỹ đối với một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, mà còn đảm bảo quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, cũng như cam kết của Mỹ trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực”, ông Knapper nói.
Theo Đại sứ Knapper, hiện tại, quan hệ hợp tác về quốc phòng giữa hai nước rất mạnh mẽ, thể hiện qua chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam vừa qua. Ông cho biết Mỹ rất hài lòng khi hợp tác với Việt Nam để năng cao năng lực của Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích tại các vùng biển, thông qua việc cung cấp các tàu tuần duyên.
“Tôi hy vọng hai nước sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác, dù là hợp tác cảnh sát biển hay bất kỳ hình thức hợp tác nào khác”, ông Knapper nhấn mạnh.
Tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan (CVN-76) thăm Việt Nam hồi tháng 6 (Ảnh: Tiến Tuấn).
Đại sứ Mỹ cũng đề cập tới Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam năm 2022, sự kiện thu hút sự quan tâm của các công ty quốc phòng Mỹ. Mỹ tin tưởng mạnh mẽ vào mục tiêu đa dạng hóa, hiện đại hóa vũ khí, trang thiết bị quân sự của Việt Nam và Mỹ muốn trở thành một phần trong nỗ lực đó.
Về hợp tác an ninh, Đại sứ Knapper đã đưa ra bình luận về vụ tấn công xảy ra ở Đắk Lắk hồi tháng 6, cũng như hợp tác an ninh giữa Mỹ và Việt Nam.
“Mỹ không bao giờ dung thứ cho những gì đã xảy ra tại Đắk Lắk và phản đối bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Chúng tôi xin gửi lời chia buồn tới gia đình của những người đã thiệt mạng trong vụ việc đó; lên án bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất về những gì đã xảy ra và việc sử dụng các phương tiện bạo lực để đạt được mục đích”, ông Knapper chia sẻ.
“Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với chính phủ Việt Nam để làm rõ những gì đã xảy ra và những đối tượng đứng sau vụ việc. Đây là thông điệp đã được gửi đi nhanh chóng và chúng tôi muốn tìm hiểu thêm về những gì đã xảy ra, nhất là khi có thông tin liên quan tới một tổ chức đặt trụ sở tại Mỹ”, nhà ngoại giao Mỹ nói thêm.
Tại Hội nghị cấp cao những người đứng đầu lực lượng chống khủng bố các nước do Liên Hợp quốc tổ chức tại New York (Mỹ) vào tháng 6, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt (Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an) cho biết vụ tấn công vào ngày 11/6 tại tỉnh Đắk Lắk có tính khủng bố. Hai nhóm đối tượng được trang bị súng và vũ khí tự chế đã tấn công trụ sở chính quyền và người dân trên đường đi. Vụ việc khiến 9 người chết, 2 người bị thương, 3 con tin bị bắt giữ.
Tại hội nghị, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho biết, lực lượng chức năng đã bắt giữ nhiều nghi phạm, trong đó có một đối tượng là thành viên của tổ chức có trụ sở tại Mỹ, nhận lệnh chỉ đạo từ tổ chức này xâm nhập về Việt Nam và dàn dựng vụ tấn công.
Theo Đại sứ Knapper, về lĩnh vực hợp tác an ninh và thực thi pháp luật, Mỹ và Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong 10 năm qua, bao gồm mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ giữa Bộ Công an Việt Nam và các cơ quan của Mỹ như Cục Điều tra Liên bang (FBI), Cục Phòng chống Ma túy và các cơ quan khác.
“Khi tôi mới bắt đầu làm việc ở đây vào năm 2004, hai nước đã có một số hoạt động hợp tác thực thi pháp luật, nhưng không nhiều. Sau gần 20 năm, Mỹ đã thúc đẩy hợp tác với Việt Nam, cùng nhau giải quyết mọi vấn đề từ tội phạm xuyên quốc gia, buôn người, ma túy và buôn bán trái phép động vật hoang dã.
Hai nước làm việc cùng nhau để đảm bảo rằng Việt Nam hoặc Mỹ sẽ không phải là điểm trung chuyển hoặc điểm đến của ma túy”, ông Knapper cho biết.
Hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực
Đại sứ Knapper khẳng định, 10 năm kể từ ngày hai nước thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, Mỹ và Việt Nam đã thúc đẩy hợp tác trên mọi lĩnh vực từ đầu tư thương mại, y tế, khí hậu, giao lưu nhân dân, giao lưu văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật, khoa học, công nghệ…
Trong 10 năm qua, hai nước đã làm sâu sắc thêm mối quan hệ hợp tác trong mọi lĩnh vực và điều đó phản ánh sự hiểu biết chung về tầm quan trọng của quan hệ Việt – Mỹ.
“Tôi nghĩ điều đó phản ánh thực tế rằng cách tiếp cận của chúng tôi đối với Việt Nam tiếp tục dựa trên một số lập trường rất cơ bản. Cụ thể chúng tôi muốn Việt Nam mạnh mẽ, độc lập, thịnh vượng và tự cường. Chúng tôi chia sẻ với Việt Nam các giá trị như tôn trọng thể chế chính trị của nhau, tôn trọng chủ quyền của nhau, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau”, ông Knapper nhấn mạnh.
Theo Đại sứ Knapper, trong hơn 10 năm qua, Mỹ đã nỗ lực rất nhiều để thúc đẩy thịnh vượng cho người dân hai nước, thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực. Mỹ cũng hợp tác với Việt Nam để đảm bảo duy trì một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng tự do và rộng mở.
Đại sứ Knapper cho biết, Mỹ cũng hợp tác chặt chẽ với Việt Nam để xây dựng quan hệ thương mại, đầu tư và đã gặt hái được nhiều thành công. Kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đã lên tới gần 140 tỷ USD.
Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Mỹ. Mỹ cũng nằm trong nhóm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và rất nhiều doanh nghiệp Mỹ quan tâm tới thị trường Việt Nam.
“Điều đáng chú ý là chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng đầu tư của Việt Nam vào Mỹ, điều chưa từng có trong vài năm trước đây”, nhà ngoại giao Mỹ nhấn mạnh.
Theo Đại sứ Knapper, trong lĩnh vực y tế, hai nước cũng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong 10 năm qua, hai nước đã cùng nhau nỗ lực đối phó với căn bệnh HIV/AIDS sau khi Việt Nam nhận được tài trợ của Chương trình Cứu trợ Khẩn cấp của Tổng thống Mỹ về phòng chống HIV/AIDS (PEPFAR) vào năm 2004.
Hai nước đã hỗ trợ nhau đối phó đại dịch Covid-19 nhờ những kinh nghiệm và thực tiễn chia sẻ cùng nhau. Mỹ đã nhận từ Việt Nam khẩu trang và thiết bị bảo hộ cá nhân, trong khi Mỹ cung cấp cho Việt Nam 40 triệu liều vắc xin Covid-19.
“Cách hai nước hợp tác cùng nhau sẽ giúp chúng ta tiếp tục đạt được những kết quả trong tương lai. Đó là lý do khi Phó Tổng thống Kamala Harris đến Việt Nam vào năm 2021, bà đã thông báo về việc Mỹ sẽ đặt văn phòng khu vực Đông Nam Á của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) tại Hà Nội”, ông Knapper nói.
Theo Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, lĩnh vực giáo dục là một ví dụ điển hình khác cho thấy mối quan hệ song phương đã phát triển sâu sắc kể từ khi hai nước bắt đầu thiết lập quan hệ đối tác toàn diện 10 năm trước. Khoảng 30.000 học sinh, sinh viên Việt Nam theo học tại Mỹ và Việt Nam hiện đứng thứ 5 trong số những quốc gia có nhiều du học sinh nhất tại Mỹ. Đại sứ Knapper hy vọng con số này sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai.
Ngoài ra, trong 10 năm qua, hai nước đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tổ chức giáo dục của Mỹ tại Việt Nam, trong đó có Đại học Fulbright. Chương trình Peace Corps cũng được triển khai với 9 tình nguyện viên người Mỹ tham gia giảng dạy tiếng Anh trên địa bàn Hà Nội.
Đại sứ Knapper cũng chỉ ra một ví dụ nữa cho thấy mối quan hệ hợp tác ngày càng được tăng cường giữa Việt Nam và Mỹ, khi hai nước nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc giải quyết những di sản chiến tranh như xử lý bom mìn còn sót lại, hỗ trợ người khuyết tật hay khử độc dioxin. Ngoài ra, hai nước cũng hợp tác trong việc tìm kiếm quân nhân mất tích và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
“Trong 10 năm qua, chúng ta đã chứng kiến mối quan hệ tăng tốc để đạt đến tầm cao mới như hiện nay, thể hiện qua các lĩnh vực đa dạng như đầu tư thương mại, năng lượng, giáo dục, y tế. Chúng ta có thể tự hào về những gì đã đạt được, nhưng chúng ta không nên ngủ quên trên vòng nguyệt quế của mình. Chúng ta không nên cho rằng chúng ta đã đạt được mọi thứ, vì sẽ có những cột mốc mà chúng ta cần hướng tới trong tương lai”, Đại sứ Knapper nhấn mạnh.
Thành Đạt/Dân trí